Gloria theo tiếng La-tinh; còn được gọi là Vinh Tụng Ca, vì chứa đựng những lời tán tụng tung hô Thiên Chúa Ba Ngôi. Sau cải cách phụng vụ, kinh này được đọc hoặc hát trong các lễ trọng và lễ kính, cũng như trong các Thánh Lễ Chúa Nhật ngoài mùa Vọng và mùa Chay. Trước đó, từ khoảng thế kỷ thứ 12, Kinh Vinh Danh được hát trong các Thánh Lễ ngoài mùa Chay. Hội Thánh dùng thánh thi rất cổ kính này để tôn vinh Chúa Cha và cầu khẩn Chiên Con (31).
Gloria in exelsis Deo (Vinh Danh Thiên Chúa trên các tầng trời) là một trong vô số thánh thi được sáng tác và hát trong giai đoạn đầu của Giáo Hội. Lúc đó, các thánh vịnh và thánh thi chưa được công nhận là thánh ca chính thức của Ki-tô hữu. Nhờ có được uy tín lớn trong Giáo Hội sơ khai nên Kinh Gloria tránh thoát nghị quyết cấm những thánh thi do cá nhân sáng tác kể từ Công Đồng Laodicêa (341-380). Ở Rô-ma, Kinh Gloria được dùng ở nghi thức đầu lễ của các lễ Giáo Hoàng, được cử hành trong các ngày Chúa Nhật và các ngày lễ các Thánh Tử Đạo, cũng như vào lễ Phục Sinh và Lễ Mở Tay của linh mục.
Nhìn từ khía cạnh thần học và lịch sử, Gloria (Kinh Vinh Danh) và Kyrie (Kinh Thương Xót) có một liên quan chặt chẽ. Khi kinh cầu Kyrie với thời gian được rút ngắn lại và mất đi dần tính cách tung hô nguyên thủy để trở thành một lời sám hối và xin thương xót, thì Gloria - với hình dạng của một thánh thi chúc tụng - xuất hiện như một sự đối lập. Gloria phản ảnh lại nhu cầu muốn tỏ lộ niềm vui trong Thánh Lễ, nhất là vào những ngày lễ trọng. Đây là một kinh của cộng đoàn.
Kinh Vinh Danh bắt đầu bằng sự chúc tụng Thiên Chúa Cha và Chúa Con với lời tung hô của các Thiên Thần (Lc 2,14), rồi đến những lời hân hoan chúc tụng Chúa Ki-tô và kết thúc “cùng với Chúa Thánh Thần... muôn đời vinh hiển với Chúa Cha.” Chúc tụng Thiên Chúa là một cách thức cầu nguyện cần thiết và quan trọng có nguồn gốc trong Kinh Thánh Cựu Ước, và đây cũng chính là điểm tạo sức mạnh tỏa lan từ thánh thi cổ kính này.