Trong Ki-tô Giáo, tiếng chuông trước hết để kêu mời các tín hữu, sau nữa là để tạo nên vẻ long trọng, trước khi bắt đầu các nghi thức phụng vụ. Ngoài ra, tiếng chuông còn được dùng để loan báo tin vui như sau khi bầu được Giáo Hoàng mới hay sau Hôn Lễ. Tiếng chuông cũng để báo tin buồn như trong nhiều xứ đạo tại quê hương ta vẫn quen làm: người ta giật chuông từng tiếng theo nguyên tắc nam thất nữ cửu, để báo và xin cầu nguyện cho người trong cộng đoàn vừa qua đời. Ở nhiều nơi, người ta kéo chuông để báo động khi có chiến tranh, tai nạn (cháy nhà, ngập lụt). Chuông cũng nhắc nhở các giờ kinh, giờ nghỉ trong các Tu Viện, tạo nên vẻ long trọng huy hoàng và vui mừng của các ngày Chúa Nhật và Đại Lễ, cũng như loan báo giờ lễ và giờ kinh tại nhà thờ.
Trong Thánh Lễ, các người giúp lễ rung chuông để nhắc các tín hữu chú ý đến nghi thức “truyền phép”. Thói quen này được hình thành vào thời Trung cổ, cùng với việc linh mục nâng cao Mình và Máu Chúa. Vào những ngày kính nhớ cuộc khổ nạn của Đức Giê-su trong Tuần Thánh, các nhà thờ không giật chuông. Nhiều nơi, người ta dùng mõ hoặc kẻng để thay thế cho tiếng chuông trong Tuần Thánh. Trong Thánh Lễ Đêm Phục Sinh, tiếng chuông lại vang lên để loan báo Tin Mừng Chúa sống lại khải hoàn.
Vì vượt qua hết mọi núi đồi rừng cây, đồng bằng thung lũng và mọi tường vách ranh giới, nên tiếng chuông là biểu tượng cho tiếng Chúa Toàn Năng; là sứ điệp của một Thiên Chúa vô biên vô tận. Tiếng chuông nhắc nhở rằng: con người chỉ có thể tìm thấy sự mãn nguyện cho những nhớ nhung, thèm khát trong đời ở nơi nó xuất phát - từ trong Nhà Chúa. Ai đặt nền đời mình sâu chắc vào trong Chúa như tháp chuông vào nhà thờ, thì cũng sẽ đủ sức vươn cao lên trời và đứng thẳng vững chắc giữa đời. Tiếng chuông là tiếng kêu gọi sống theo Luật Chúa; và như thế còn được coi là một biểu tượng cho sự liên kết giữa Đất Trời. Là một thành phần đời sống tình cảm của người Ki-tô hữu, tiếng chuông trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều ca khúc, bài thơ.
Vì là một dụng cụ phụng tự mang nhiều ý nghĩa như thế, nên chuông dùng ở các nhà thờ và nhà nguyện được Giám Mục làm phép với một nghi thức riêng. Xuất hiện lần đầu vào thế kỷ 9 trong các tu viện, các chuông nhỏ đã được phổ biến rộng rãi và nhanh chóng tại Châu Âu, rồi trên toàn thế giới Ki-tô Giáo. Nhưng trước khi có chuông, người ta đã dùng những thanh gỗ, đất sét hay bằng kim loại như cồng, chiêng hay lục lạc trong mọi tôn giáo và văn hóa, để xua đuổi tà ma bệnh tật và che chở con người. Chứng tích sớm nhất mà người ta tìm thấy được từ thế kỷ 9 trước Chúa Giáng Sinh ở vùng Cận Đông, nơi tiếng chuông biểu hiện cho sự hòa hợp trong vũ trụ.
Trong các nghĩa địa và hang toại đạo ở Rô-ma, người ta cũng tìm thấy nhiều chuông nhỏ. Các chuông lớn với hình thù như ngày nay có từ đầu thế kỷ 14. Chuông đã được người Châu Âu ưa chuộng và quý mến - nên dưới thời Karolinger họ đã xây tháp cho chuông. Cũng từ thời đó, tháp chuông là một thành phần không thể thiếu của kiến trúc Giáo Đường ở mọi nơi trên thế giới.