Kinh Lạy Cha được đặt vào phần quan trọng nhất trong Thánh Lễ, như một gạch nối giữa phần Kinh Tạ Ơn với phần Hiệp Lễ. Quả vậy, Kinh Lạy Cha trở thành nơi mầu nhiệm hiến tế của Đức Ki-tô được tưởng nhớ (Kinh Tạ Ơn), và là nơi người tham dự Thánh Lễ thông phần vào mầu nhiệm đó qua việc đón nhận Mình Máu Thánh Chúa (Hiệp Lễ).

Để bắt đầu phần Hiệp Lễ, linh mục đọc hay hát lời dẫn: “Vâng lệnh Chúa Cứu Thế, và theo lời Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng”, rồi giang tay đọc chung với cộng đoàn lời kinh chính Đức Giê-su đã dạy ban. Trong phần đầu, cộng đoàn Dân Chúa bày tỏ lòng mong ước đợi chờ cho Nước Chúa đến khắp nơi nơi; và cho Ý Chúa trở nên thước tấc của tất cả hành động, mọi sự sống. Những lời cầu xin trong Kinh Lạy Cha vì thế mang tính cánh chung,  do nói lên niềm hy vọng vào sự hoàn tất ơn Cứu Độ trong thời gian cuối cùng: trong ngày Chúa Ki-tô trở lại (Ngày Quang Lâm).

Kinh thánh Tân Ước có hai bản Kinh Lạy Cha: bản ngắn của Lu-ca (11,2-4) và bản dài của Mát-thêu (6,9-13). Phần lớn các Ki-tô hữu cầu nguyện theo bản kinh của Mát-thêu, với một ít ảnh hưởng từ bản của Lu-ca. Hướng về việc “ăn và uống Mình Máu Chúa” nơi Bàn Tiệc Thánh, Kinh Lạy Cha cũng giống như là một lời kinh trước bữa ăn. Các Thánh Phụ (Ambrosius, Cyprian) nhìn thấy sự liên kết chặt chẽ giữa Kinh Lạy Cha và việc rước lễ trong lời cầu xin lương thực hằng ngày và lời xin tha tội. Yên ổn trong nội tâm, sống tình huynh đệ và hiệp nhất với anh chị em là sự chuẩn bị cần thiết và tốt nhất cho việc rước lễ. Do đó,  Kinh Lạy Cha luôn được nối liền với việc chúc bình an trong phụng vụ Rô-ma.

“Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Chỉ có Thiên Chúa mới có thể tẩy sạch chúng ta khỏi những tội lỗi qua ơn tha thứ. Và người được tha phải thực thi điều mình đón nhận từ Thiên Chúa, bởi “nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,15). Và bởi vì “khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh em, thì hãy để lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Đây là một trách nhiệm của kẻ làm con, vì tất cả những ai đứng quanh bàn Tiệc Thánh đều gọi Chúa là “Cha chúng con ở trên trời.” Mối lo cho sự xứng đáng để đón nhận Mình Thánh được tỏ bày trong lời xin “đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.”

Sau khi tất cả đọc xong, linh mục đọc tiếp một mình: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Nhờ Chúa rộng lòng thương cứu giúp, chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi, và được yên ổn khỏi mọi biến loạn, đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu độ chúng con ngự đến.” Ý tưởng cuối của Kinh Lạy Cha được tiếp nhận và giải thích trong phần phụ đính này (Embolismus); rồi được hướng về trở lại phần đầu của Kinh Lạy Cha: là chờ đợi sự hiển trị của Nước Chúa, cũng như kết thúc với sự chờ đợi Ngày Quang Lâm của Đấng Cứu Thế.

“Vì vương quyền, uy lực và vinh quang là của Chúa đến muôn đời” là một cách kết thúc Kinh Lạy Cha quen thuộc ở các nghi thức phụng vụ Đông Phương. Qua lời kinh cổ xưa này, cộng đoàn tuyên xưng niềm tin tưởng mạnh mẽ vào sự chiến thắng cuối cùng của Nước Chúa. Kinh Lạy Cha là lời kinh của tín hữu, mặc dù linh mục giang tay khi đọc.

Kinh Lạy Cha là một thành phần cổ kính trong gia sản cầu nguyện của Giáo Hội. Đây cũng là một phần của Thánh Lễ từ cuối thế kỷ 4 trong Giáo Hội Đông và Tây, được các Thánh Giáo Phụ nói đến: Hyronimus, Ambrosius, Augustinus làm chứng ở Giáo Hội Tây phương; Cyrill chứng cho Đông Phương. Khác là ở Đông Phương Kinh Lạy Cha được đọc sau khi bẻ bánh; ở Tây Phương lời kinh này được đọc trước.

Đọc Kinh Lạy Cha sau Kinh Tạ Ơn là một tập tục tại Konstantinopel được Đức Giáo Hoàng Gregor Cả cho tiếp nhận vào phụng vụ Rô-ma hồi thế kỷ thứ 6. Để tránh việc hiểu lầm và do lòng tôn kính mầu nhiệm được nói lên  trong các Kinh Tin Kính, Kinh Lạy Cha và một vài nghi thức trong Thánh Lễ, Giáo Hội cổ điển có tập tục giữ kín trước người ngoại giáo (Arkandisziplin). Những kinh này chỉ được trao cho những ai đã lãnh nhận bí tích rửa tội.

 

Có qua có lại mới toại lòng nhau: đón nhận và cho đi là cơ cấu nền tảng của đời sống con người. Trao đi và tặng lại là những liên lạc có mục đích chăm sóc gìn giữ và bảo vệ sự liên tục cuộc sống. Mối quan hệ giữa con người và thần thánh cũng “sống” bằng những đổi trao qua lại: con người lập bàn thờ, tìm đến đền đài, chùa chiền hay nhà thờ để dâng cúng lễ vật; và Thiên Chúa hay thần thánh “đáp lễ” bằng những phúc lộc.

Con người tế lễ để biểu lộ sự tôn sùng kính bái, ước mong bảo tồn trật tự hiện tại cũng như để bảo đảm mạng sống của mình. Dâng đi những gì mình cần để sống còn biểu hiện sự sẵn sàng tận hiến hoàn toàn cho Đấng tạo ban sự sống. Đó cũng là cách bày tỏ sự lệ thuộc, phục tùng, tri ân, trung thành và cầu xin tha thứ giúp đỡ. Để lại một phần những gì săn bắn hay hoa trái thu hoạch được là một hình thức dâng cúng - như là một dấu chỉ công nhận quyền tối cao của Tạo Hóa. Hình thức khác là giết một con vật. Trong hầu hết các thần thoại, tình trạng nguyên thủy được dẫn đến từ những xé nát có đổ máu. Từ đó, mỗi khi trật tự thế giới bị xáo trộn, thì con người lại dâng tế, với ước mong tái tạo được tình trạng nguyên lành của lúc ban đầu. Khi dâng cúng, con người đặt của lễ lên bàn thờ và Thiên Chúa đón nhận. Một quan hệ được tạo thành: Thiên Chúa và người như “ngồi cùng bàn”. Việc cúng tế vì thế thường luôn đi đôi với một bữa ăn bữa tiệc.

Người Do-thái tế lễ để thiết lập hoặc để khôi phục mối quan hệ đã bị sứt mẻ, gây nên bởi sự bất trung với Giao ước của Thiên Chúa. Đồng thời hành vi phụng vụ này cũng nói lên niềm tin vào lòng nhân ái của Thiên Chúa, Đấng luôn đoái thương nhậm lời. Do đó, tế lễ đóng một vai trò then chốt trong đời sống dân Ít-ra-en. Qua việc cúng tế, họ cảm nhận được một cách cụ thể mối tương quan với Gia-vê: trong hiến tế cho Đức Chúa họ bước vào một cuộc trao đổi sự sống đều đặn với Người. Các dịp tế lễ là những điểm gặp gỡ Thiên Chúa.

Niềm tin Kitô Giáo chỉ biết có một hy lễ có đổ máu duy nhất: cái chết trên thập giá của Đức Giê-su. Vâng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa, Đức Giê-su đã tự hiến mình chịu chết một lần duy nhất, và đã trở nên lễ vật vẹn toàn xóa bỏ tội muôn người, đem lại ơn cứu độ cho mọi thế hệ. Tuy rằng sách Tân Ước dùng đến các hình ảnh của quan niệm tế lễ Cựu Ước để diễn giải, nhưng hy lễ của Đức Giê-su vượt trội trên hết mọi tế lễ khác xưa nay: bởi vì chính Thiên Chúa hành động trong sự hiến tế của Đức Giê-su, để giao hòa và nối lại “mối tình trời với đất.” Cũng vì vậy, hy lễ của Đức Giê-su hoàn thành và kết thúc mọi tế lễ được dâng tiến xưa nay. Qua đó, Người thành lập nên một Giao Ước Mới vĩnh cữu giữa Thiên Chúa và con người trên một nền tảng mới: không trên căn bản luật lệ như xưa mà nội tại trong tâm hồn (Dt 7-9).

Sự tự hiến của Đức Giê-su được gọi là “giá chuộc” (Mc 10,45); là phục vụ (Lc 22,27); là hạ mình và được siêu tôn (Pl 2,5-11); là quy phục Thiên Chúa (1 Cr 15, 28); thánh hiến nhân loại (Ga 17,19); và là "chiên lễ Vượt Qua" (1 Cr 5,7). Hy lễ của Đức Giê-su được trao lại cho Hội Thánh trong hình thức một bữa tiệc: khi Người trong bữa ăn cuối với các môn đệ, cầm lấy bánh cũng như chén rượu và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em... Đây là chén Máu Thầy, máu đổ ra để lập Giao Ước Mới... anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11,23-26).

Khi cử hành Thánh Lễ, Hội Thánh không dâng tiến một tế lễ mới hay lập lại hiến tế thập giá của Đức Giê-su. Cử hành Thánh Lễ là thực thi lời dạy “làm để nhớ” rằng: Đức Giê-su đã vâng phục ý Chúa Cha để trở nên người phàm, chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để đem lại ơn tha thứ cho mọi người trong mọi thời đại. Khi cử hành như vậy, biến cố lịch sử xảy ra một lần duy nhất trở nên một biến cố sống động trong hiện tại. Đây là một mầu nhiệm. Thần học dùng chữ “hiện tại hóa” để mô tả thực tế mầu nhiệm này.

Bánh và rượu không là của lễ của chúng ta dâng cúng cho Thiên Chúa. Những lễ vật này bày tỏ sự sẵn sàng sống huynh đệ trong cộng đoàn của chúng ta, trong đó Đức Ki-tô là linh mục duy nhất làm sống động hiến tế của Người dâng cho Chúa Cha, cũng như để nối kết chúng ta vào sự tự hiến đó. Trên nền tảng mới này, các nghi thức tế lễ tỏ lòng tôn phục của con người đối với Thiên Chúa đón nhận một chiều kích sâu xa mới mẻ: đó là sự vâng phục ý Thiên Chúa như Đức Giê-su. Do đó, chúc tụng ngợi khen cũng như việc thực thi ý muốn của Thiên Chúa và tình yêu tha nhân được gọi là tế lễ (Dt 13,16; Pl 4,18). Tham dự Thánh Lễ là chung phần trong Giao Ước Mới đem lại sự sống vĩnh cửu.

Giỗ 52 năm Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm

Lễ Giáng Sinh 2014 tại St. Anna

Lễ quan thày CĐ Frankfurt 2015